“Mỗi quân nhân một Tân Ước”. Cha an ủi khích lệ tôi lên đường bình an. Tôi gói Bánh Thánh bằng giấy kiếng trắng và đặt trong quyển Phúc Âm. Đó là hành trang của tôi mang theo cho hành trình 13 năm tù tội. Hành trang quý giá này đã cho tôi thấy Chúa luôn quan phòng và luôn chăn nuôi tôi, cho tôi niềm cậy trông và niềm hy vọng qua những năm tháng tù đày.
Augustino Lê Trị – LN Đức Mẹ La Vang
khóa 21 Cursillo tại Bêtania Chí Hoà, Sàigòn, mùa Hè 1971.
Được tham gia vào Phong trào đối với tôi là một Hồng ân Chúa ban, và là một ơn gọi đặc biệt. Suốt 52 năm qua, tôi luôn gắn bó với Phong trào Cursillo, từ Việt Nam sang đến Hoa Kỳ, vì Phong trào chính là lẽ sống đời sống Đức Tin của tôi và cả gia đình tôi nữa. Trước đây tôi giữ đạo một cách máy móc, nhưng qua 3 ngày tham dự khóa tĩnh tâm, trở về nhà tôi thay đổi hẳn thái độ đời sống đạo, như siêng năng tham dự Thánh Lễ, rước lễ, và lần chuổi Mân Côi. Đối với gia đình, cuộc sống hạnh phúc hơn, tiếp xúc với tha nhân biết cảm thông và chia sẻ buồn vui với mọi người.
Sau biến cố mất nước năm 1975, tôi bị bắt đi trình diện và đi tù, còn được gọi là “học tập cải tạo,” trong suốt 13 năm, qua các trại tù tàn khốc từ miền Bắc, miền cao nguyên và miền Nam. Rất may mắn cho tôi, là tôi đã là một Cursilitas trước 30 tháng 4, 1975, cho nên khi vào tù tôi đã được trang bị tinh thần sống phó thác, hy sinh và bác ái.
Trước khi phải đi trình diện để đi “học tập cải tạo,” tôi đến gặp cha Linh hướng Giacôbê Đỗ Thiên Bình, chánh xứ giáo xứ Tân Phước. Cha đưa tôi tới Nhà Tạm trong nhà thờ, chầu Thánh Thể giây lát, rồi Cha mở Nhà Tạm lấy ra một Bánh Thánh trao cho tôi, cùng với một quyển Phúc Âm nhỏ “Mỗi quân nhân một Tân Ước”. Cha an ủi khích lệ tôi lên đường bình an. Tôi gói Bánh Thánh bằng giấy kiếng trắng và đặt trong quyển Phúc Âm. Đó là hành trang của tôi mang theo cho hành trình 13 năm tù tội. Hành trang quý giá này đã cho tôi thấy Chúa luôn quan phòng và luôn chăn nuôi tôi, cho tôi niềm cậy trông và niềm hy vọng qua những năm tháng tù đày.
Tôi đã bị chuyển đưa ra miền Bắc, đến các vùng núi rừng hiểm trở và hoang vu, ở Sơn La, Nghĩa Lộ. Trong một lần đi lao động chặt vầu, tôi bị trượt ngã và bị mảnh nứa bén như dao cắt bàn chân tôi từ đầu bàn chân đến gót. Giữa cảnh núi rừng trùng điệp, tiếng chim kêu vượn hú quá thê lương, tôi cảm thấy đời mình vô vọng, vì cái chết hiện ra trước mắt. Tôi ngữa mắt kêu trời, ngã lòng trông cậy. Nhưng may mắn thay, Lời Chúa văng vẳng bên tai tôi “Hỡi những ai gồng gánh nặng hãy đến cùng Ta vì gánh ta thì nhẹ nhàng và ách ta thì êm ái.” Lời Chúa lại đến an ủi tôi, qua lời người cha nhân hậu với người con cả “con ơi mọi sự của cha là của con, còn em con đã chết nay sống lại,” Ta mở tiệc ăn mừng.” Tôi nhớ tới lời này, tâm hồn tôi bỗng bừng lên, vui mừng lên vì nhìn cảnh núi rừng hùng vĩ Sơn La bỗng trở nên thơ mộng cảnh vui tươi và yêu đời trở lại: với tiếng hót chim muông, tiếng hú của vượn báo hiệu ngày sắp tàn với cảnh trời hoàng hôn tuyệt đẹp. Trong cảnh thiên nhiên này là gia tài của người cha, của Chúa ban nuôi sống tôi và mọi người. Thật vậy, trong cảnh núi rừng này tôi đã tìm được nhiều của ăn như bắp chuối rừng, các mụt măng non, cây lá ăn được như rau cải tàu bay, lá vòi voi, rau má, rau ôm, rau dấp cá… Chính những tài nguyên thiên nhiên này “của cha là của con” đã giúp tôi và các anh tù cải tạo kiếm thêm để sống qua ngày. Từ đó tôi hoàn toàn sống Phó Thác cho Chúa và vâng chịu cảnh tù trong bình an, vui sống. Lời Chúa là của ăn, là sức sống cho tôi lúc gặp gian nan khốn khó.
Qua các trại tù, cuốn Kinh Thánh và Mình Thánh Chúa là hai bảo vật mà tôi luôn giấu kỷ đối với các bộ cộng sản, nhưng phổ biến với các anh em đồng cảnh. Có một lần vì kiểm soát quá kỹ, nên tôi đã xé quyển Phú Âm ra làm 4 tập theo 4 thánh sử, và phân tán trao 4 người cất giấu để học hỏi Lời Chúa. Riêng mẫu Mình Thánh Chúa sau 3 năm cất giấu không được nữa tôi đã rước Chúa vào lòng. Nhờ có Mình Thánh Chúa và Phúc Âm, chúng tôi lén tụ họp nhau trên rừng khi lao động, để Chầu Thánh Thể và học hỏi Lời Chúa. Tôi cũng ghi chép Lời Chúa và Kinh Hòa Bình rồi phân phát cho các anh em giữ trong người.
Có một lần một người bạn của tôi tên Khiêm báo cho tôi biết là tờ giấy kinh của tôi chép cho anh đã bị cán bộ cộng sản tịch thu. Chúng tôi lo lắng vì thế nào chúng tôi cũng bị kỷ luật nằm trong khám tối và cắt phần ăn, vì truyền đạo trái phép. Tuy nhiên tôi lấy lại bình tĩnh, và nói với anh Khiêm là “đừng sợ, hãy cầu nguyện và phó thác cho Chúa, và anh em mình hãy vui mừng vì hôm nay một người vô thần được đọc Lời Chúa và Kinh Hòa Bình. Anh và tôi cứ an tâm cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ làm việc và che chở cho chúng ta.” Sau đó tôi loan báo cho các bạn đồng cảnh hãy cẩn thận và giữ kín Lời Chúa và Kinh Hòa Bình, đồng thời liên lỉ cầu nguyện cho anh Khiêm và kể cả tôi nữa.
Một ngày Chúa Nhật sống trong cầu nguyện và hồi hộp. Đến chiều trong giờ cơm anh Khiêm bị gọi lên văn phòng trại “làm việc.” Anh Khiêm đến báo cho tôi hay rồi đi. Tôi khuyên anh hãy bình tĩnh và trông cậy vào sự quan phòng của Chúa, đồng thời tôi cũng loan báo ngay cho anh em tiếp tục cầu nguyện. Sau 1 giờ đồng hồ, anh Khiêm hớn hở vui mừng trở về trên tay cầm tờ giấy kinh do tôi chép. Chúng tôi tất cả vui mừng và cảm tạ ơn Chúa. Vì Lời Chúa bảo: các con “đừng sợ” trong mọi công tác Tông đồ vì chúng ta là chiến sĩ can cường của nước Chúa và luôn được Chúa che chở. Cảm tạ ơn Chúa.
Đến năm 1981, tôi và các anh em Sĩ quan đồng cảnh được đưa từ ngoài Bắc vào trại Gia Trung thuộc tỉnh Gia Lai Kon Tum, nằm gần đường quốc lộ 19. Tại trại này có tên cán bộ trực trại ác ôn tên là Quý, biệt danh là Tư Búa, đối xử rất tàn ác với các anh em trong trại. Rất nhiều anh em đã bị anh ta thường xuyên đánh đập một cách vô cớ và dã man, với một cái búa anh ta luôn có sẳn trên tay. Tất cả mọi người sống trong lo âu và sợ sệt, vì không biết đến lúc nào họ sẽ thành nạn nhân của anh ta.
Có một dịp Tư Búa được cho đi học thêm võ Taekwondo tại tổng nha công an Sài Gòn. Tất cả mọi người đều lo sợ, vì khi trở về, với những đòn võ hiểm hóc, mọi người sẽ nếm no đòn của anh ta. Nhưng kỳ lạ thay, sau hơn một tháng, không có chuyện gì xảy ra. Tư Búa bổng dưng hiền lành và đối xử hòa nhã hơn với mọi người. Trong một dịp được nhờ đóng rương cho Tư Búa, tôi hỏi anh ta về những lúc về thành phố để học bổ túc, và được anh ta cho biết là đã gặp một số anh em trại viên đã được tha về, và họ đối xử rất vui vẻ và thân thiện với anh ta. Anh ta nhận thấy hầu hết các anh em trại viên là những người học thức, có tư cách tốt và nhất là có lòng yêu thương, tha thứ! Qua câu chuyện về Tư Búa, tôi cảm nhận ngay lòng yêu thương và tha thứ của các anh đã được tha về trước, đã cảm hóa được Tư Búa trở về với con người hiền thục, cảm thông với những người tù “bất đắc dĩ”, trong đó có tôi, và kể từ đó, tên cán bộ Quý sống có thái độ hiền lành và cảm thông với các anh em tù chúng tôi.
Vì bị nhiều ngược đãi vô cớ, và phải chịu tù đày trong 13 năm, nhiều lần tôi đã oán hận những cán bộ cộng sản đã giam cầm và hành hạ tôi. Nhưng Lời Chúa đã mặc khải cho tôi rằng, chỉ có tình thương và tha thứ mới xóa bỏ hận thù được mà thôi, và là một Cursillista, tôi phải học theo Thầy Chí Thánh để tha thứ và thương yêu những kẻ giam cầm và hành hạ mình.
Trong suốt 13 năm tù “cải tạo”, tôi lén lút chép Phúc Âm, và kinh Hòa Bình để phổ biến cho các anh em đồng cảnh Công giáo, cũng như không Công giáo. Tôi tập họp các anh em từ 3 đến 5 người cùng đọc kinh, sinh hoạt cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa trên núi rừng hoang vu miền Bắc, khi cùng lao động trong ngày. Ngoài ra cộng sản cấm không được mang ảnh tượng Chúa Mẹ trên người. Thấy thế tôi liền nghĩ ra cách làm hàng trăm chiếc Thánh Giá nhọn của Phong trào Cursillo và phân phát cho các anh em. Chúa đã cho tôi tài vặt làm đựơc chuỗi Mân Côi, đàn guitar, violon cho các anh em sinh hoạt. Tôi rất tin tưởng vào Chúa Thánh Thần, vì Ngài luôn cho chở cho tôi khi hoạt động tông đồ giữa môi trường rất nguy hiểm và khó khăn. Chưa bao giờ tôi bị phát giác rồi đưa đi kỷ luật giam trong ngục tối, và cúp phần ăn. Đó là do ơn Chúa Thánh Thần che chở như Lời Chúa nói: “khi các con bị đưa ra Hội đường, các con đừng sợ, đừng lo lắng sẽ nói gì? Chúa Thánh Thần sẽ giúp đỡ con”.
Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa đêm ngày với bao lao khổ mà Chúa vẫn gìn giữ tôi. Và nhớ lại lúc tôi 12 tuổi đã bị stroke bại liệt nửa người bên phải: tay, chân, lưỡi tôi hoàn toàn bại xuội. . . nhưng sau 3 tháng nhờ lời cầu của tôi, của cha mẹ tôi và những người thân, tôi đã được Chúa chữa lành. Nhưng ngay sau đó tự nhiên mắt tôi mù lòa, không còn trông thấy gì cả. Thế mà Chúa thương chữa lành cho tôi cũng sau 3 tháng. Tóm lại trong Thánh Kinh Chúa chữa lành cho người mù trông thấy lại, cho người què đứng lên vác chõng về nhà. Riêng tôi cả 2 chứng bệnh mù lòa và què quặt trên tôi đều có cả, nhưng đều được Chúa chữa lành.
Một sáng nọ, tôi thức dậy sớm, mở email bỗng được anh Nguyễn Quang Ban gửi cho tôi 1 bài thánh ca “Chúa Chăn Nuôi Tôi” của tác giả Linh mục Duy Thiên, với giọng ca trầm đoàn ca nam hợp xướng. Tôi download nhạc và mở nghe. Lời kinh rót vào tâm hồn tôi ngây ngất. Một chuỗi cuộc đời tôi trong quá khứ hiện ra trong tâm trí. Đúng là cuộc đời tôi hoàn toàn do Chúa ban ơn cho sống và ban tràn đầy hồng ân. Đúng là Chúa chăn nuôi tôi quá kỹ cho đến ngày hôm nay tôi đã đã 84 tuổi rồi Vậy mà vẫn khỏe mạnh.
“Chúa chăn nuôi tôi, tôi mà còn thiếu gì. Chúa bảo vệ tôi lẽ nào tôi còn sợ chi, còn sợ ai. Nẻo đường chính tôi theo, cây gậy Chúa dẫn đường. Dù vượt suối qua đồi hoặc qua ngàn tăm tôí. Tôi đâu có sợ chi vì Chúa ở cùng tôi.” Đó là linh đạo của Phong trào Cursillo đã giúp tôi sống đời sống Ngày Thứ Tư của tôi trong môi trường tù đày. Tôi cũng có thể sùng đạo, học đạo và hành đạo của một cursillita để làm chứng nhân cho Thầy Chí Thánh, là chiến sĩ hiên ngang và kiên cường của Thầy trong mọi hoàn cảnh và biến cố. Tôi đã khuyến khích gia đình, gồm có vợ, con, dâu rễ đều tham gia dự khóa Cursillo 3 ngày, và tất cả đều trở thành những Cursillistas nhiệt thành và gắn bó với Phong trào. Ngoài ra tôi cũng hăng hái giới thiệu mời gọi các anh chị em trong Cộng đoàn, bạn bè quen thân v.v…tham gia hoạt động trong PT Cursillo. Cảm tạ Thiên Chúa Tình yêu.